Xã hội ngày càng hiện đại, phát triển, những định kiến về giới tính đang dần được xóa mờ, nhưng điều này đồng nghĩa với việc chúng ta phải không ngừng tranh đấu để nhận được sự tôn trọng, công nhận về sự đa dạng giới tính cũng như xu hướng tính dục của bản thân. Nó thể hiện sự sẵn sàng yêu thương hơn sự đa dạng của chính mình cũng như mọi người xung quanh.
Tuy nhiên, hiện tại mọi người đang có rất nhiều sự nhầm lẫn giữa những khái niệm về “giới tính sinh học”, “xu hướng tính dục” hay “bản dạng giới”. Trong bài viết hôm nay, hãy cùng iBNA tìm hiểu về những thuật ngữ này để có thể có cho mình cách hiểu đúng nhất nhé!
Giới tính sinh học (Sex/Biological sex)
Đầu tiên, chúng ta cần hiểu định nghĩa đơn giản nhất về giới tính hay còn gọi là giới tính sinh học (sex/biological sex). Giới tính là đặc điểm sinh học tạo nên sự khác biệt giữa nam và nữ. Giới tính là bẩm sinh và đồng nhất, nghĩa là giữa nam và nữ ở khắp mọi nơi trên thế giới đều có những sự khác biệt như nhau về mặt sinh học, không thể thay đổi được giữa nam và nữ, do các yếu tố sinh học quyết định như nội tiết tố, nhiễm sắc thể.
Ví dụ, phụ nữ có bộ phận sinh dục nữ và có thể mang bầu, sinh con và cho bú bằng chính bầu sữa của mình, còn nam giới có bộ phận sinh dục nam và có thể sản xuất ra tinh trùng.
Tuy nhiên giới tính sinh học của một người có thể tồn tại cả 2 ví dụ như một người có thể có bộ phận sinh dục của giới nữ nhưng đồng thời lại tồn tại nhiễm sắc thể của người nam. Đây được gọi là liên giới (intersex), và nó tồn tại ngay từ lúc người đó sinh ra. Để tránh sự mập mờ và không rõ ràng khi nhắc đến cộng đồng người chuyển giới, cụm từ “giới tính sinh ra” được khuyến khích sử dụng thay cho từ “giới tính” hay “giới tính sinh học.
Xu hướng tính dục (Sexual Orientation)
Trong hầu hết các định nghĩa khoa học, xu hướng tính dục thường chứa đựng cấu thành về tâm lý – cảm xúc hướng tới một đối tượng nào đó, và/hoặc cấu thành về hành vi – tập trung vào vấn đề tình dục của cá thể. Xu hướng tính dục mô tả những người cảm thấy hấp dẫn về tình cảm và tình dục với những người khác:
- Dị tính (Straight) mô tả những người phụ nữ bị thu hút bởi đàn ông và đàn ông bị thu hút bởi phụ nữ.
- Đồng tính (Gay) mô tả những người bị thu hút bởi người cùng giới tính. Thuật ngữ gay thường được dùng để đề cập đến những người đàn ông bị thu hút bởi những người đàn ông.
- Đồng tính nữ (Lesbian) mô tả những người phụ nữ bị thu hút bởi những người phụ nữ khác.
- Lưỡng tính/song tính (Bisexual) mô tả những người cảm thấy hấp dẫn về tình cảm và tình dục với những phụ nữ/nữ và đàn ông/nam. Một số người định nghĩa lưỡng tính/song tính là bị thu hút bởi tất cả giới tính.
- Vô tính (Asexual) là cộng đồng những người không cảm thấy hứng thú tình dục với bất cứ một giới tính nào. Thái độ đối với tình dục của cộng đồng người vô tính rất thay đổi. Có người cảm thấy ghê sợ, cũng có người chỉ đơn thuần là không cảm thấy hứng thú. Bên cạnh đó, vẫn có người ham muốn tình dục đôi chút nhưng không bị hấp dẫn bởi tình dục.
- Một số người sử dụng các thuật ngữ khác, chẳng hạn như “queer” để mô tả xu hướng tính dục của họ.
Trên đây chỉ là những thuật ngữ chúng ta thường gặp, trên thực tế, có đến 46 thuật ngữ cho xu hướng tính dục.
Bản dạng giới (Gender Identity)
Bản dạng giới (gender identity) là cách một người nhìn nhận về bản thân – ý thức chủ quan và kinh nghiệm cá nhân về giới của họ. Chỉ duy người đó mới có thể quyết định bản dạng giới của mình. Rất nhiều người có bản dạng giới là nam hoặc nữ, nhưng một số khác lại không. Những ai không là nam hay nữ có thể nhìn nhận mình thuộc cả hai giới, không thuộc hai giới, nằm giữa hai giới, hoặc vô giới.
Với nhiều người, bản dạng giới và giới tính sinh học của họ là giống nhau. Nhưng một số khác lại không như thế. Đôi khi những người có bản dạng giới không khớp và giới tính sinh học tìm cách thay đổi để vai trò xã hội và cơ thể của họ thích hợp với bản dạng giới hơn. Đó có thể gồm các thay đổi mang tính xã hội, như việc dùng tên, danh xưng, quần áo, kiểu tóc hoặc cách trang điểm khác xưa. Có trường hợp dùng đến các thay đổi y tế, như tiêm hoóc môn, phẫu thuật chuyển đổi giới tính. Những người trải qua quá trình này sẽ được coi là người chuyển giới (transgender).
Bản dạng giới lại phức tạp hơn nhiều so với việc là “nam” hay “nữ”. Đặc biệt là hiện nay, sự đa dạng trong cách thể hiện giới đang được nhìn nhận và ủng hộ nhiều hơn.
Vấn đề thể hiện giới (Gender Expression)
Thể hiện giới là cách một người thể hiện bản dạng giới ra ngoài. Một nhóm các chuẩn mực hành vi gắn liền với nam giới hay nữ giới được người khác cảm nhận. Đây có thể là một dạng phân chia công việc giữa nam và nữ.
Một số người có duy nhất một thể hiện giới trong mọi trường hợp, trong khi số khác lại thay đổi qua thời gian hoặc tùy vào hoàn cảnh. Ví dụ, một người trung tính thường mặc quần đùi và áo phông tuy nhiên, người đó cũng có thể khoác lên mình bộ váy và đi giày cao gót khi mà muốn bản thân mình nữ tính hơn.
Thể hiện giới và bản dạng giới không phải lúc nào cũng giống nhau. Ví dụ, một người sinh ra là nam có thể nhìn nhận mình là nữ, nhưng lại không có môi trường đủ an toàn để bộc lộ sự nữ tính. Vì vậy họ có thể sống với vai trò xã hội là nam và thể hiện mình như nam giới, mặc dù thâm tâm họ đang rất đau khổ. Điều này cũng tương tự với nữ giới khi họ phải gánh vác trách nhiệm của 1 người mẹ tuy nhiên, chính họ không hề cảm thấy thoải mái với vai trò mà xã hội coi là thiêng liêng đó.
Kết
Mỗi chúng ta là một màu sắc và màu sắc nào cũng có giá trị riêng. Dù bạn là ai thì bạn vẫn luôn xứng đáng được tôn trọng, đối xử bình đẳng và có được hạnh phúc. iBNA tin rằng bài viết này đã giúp các bạn có cái nhìn sâu sắc, đa chiều hơn về cộng đồng LGBT nói riêng cũng như có cái nhìn tổng quan về chủ đề giới tính nói chung.